Báo cáo kinh tế Mỹ tháng 2/2022

27/02/2022

Trong khi tình hình dịch bệnh vẫn tiếp tục diễn biến khó lường, thì cuộc xung đột giữa Nga và Ukraina đã khiến tình hình kinh tế thế giới trở nên bất ổn, giá cả hàng hóa đặc biệt là dầu mỏ tăng phi mã khiến cho tốc độ tăng trưởng của Mỹ trong hai tháng đầu năm vẫn chưa đạt được kỳ vọng.

 

  1. Tình hình kinh tế Mỹ

Theo báo cáo của BEA, GDP của Mỹ tăng 6,9% trong quý IV, đưa mức tăng trưởng năm 2021 ước tính đạt 5,7%[1]. Đây là mức tăng lớn nhất kể từ sau năm 1984 và phần lớn được dẫn dắt bởi gia tăng hàng tồn kho. Đợt bùng phát COVID mới nhất đang dần lắng xuống ở Hoa Kỳ, với số ca mắc mới trung bình trong bảy ngày giảm xuống khoảng hơn 100 nghìn ca một ngày[2]. Nhưng ngay cả khi làn sóng Omicron suy giảm nhanh như khi nó xuất hiện, thì cũng đã gây ảnh hưởng đáng kể đến tăng trưởng quý I/2022. Mặc dù các hành vi kinh tế đã trở nên ít nhạy cảm hơn với các làn sóng vi rút, nhưng biến thể Omicron vẫn làm gián đoạn hoạt động trong hai tháng qua. Điều này cùng với việc các hỗ trợ tài chính đã dừng lại sẽ khiến tăng trưởng trong quý đầu tiên của năm 2022 chậm lại đáng kể.

Lượng mua hàng của người tiêu dùng tăng nhẹ, với hầu hết mức tăng là do chi tiêu cho dịch vụ. Chi đầu tư cố định tăng, thành phần xuất khẩu ròng không đổi và chi tiêu chính phủ giảm. Thu nhập khả dụng thực tế tiếp tục có xu hướng giảm, một phần vì lạm phát tăng cao[3]. Chi tiêu tiêu dùng thực tế giảm, với việc mua sắm hàng hóa lâu bền giảm mạnh. Lợi tức trái phiếu kho bạc kỳ hạn 10 năm tăng. Chỉ số chứng khoán S&P 500 đã giảm trong tháng 1/2022, tương ứng mức giảm 6% kể từ đầu năm.

 Doanh số bán lẻ trong tháng 1/2022 tăng 3,8%, sau khi giảm 2,5% trong tháng 12/2021, phản ánh mô hình mùa vụ đang thay đổi do tác động của đại dịch Covid-19. Sản lượng sản xuất công nghiệp trong tháng 1/2022 tăng 1,4% so với tháng trước và tăng 4,1% so với cùng kỳ năm trước. Sản lượng công nghiệp chế tạo trong tháng 1 tăng 0,2% so với tháng trước (2,7% so với năm trước), trong đó sản lượng số lượng xe có động cơ giảm 09% trong tháng 1 (giảm 6,2% so với năm trước)[4].

Chỉ số của Các Chỉ số Kinh tế Hàng đầu đã giảm 0,3% trong tháng 1 sau khi tăng 0,8% và 0,7% trong hai tháng cuối năm, với sáu trên mười thành phần thể hiện sự tiêu cực (bao gồm ​​số đơn xin trợ cấp thất nghiệp gia tăng, kỳ vọng của người tiêu dùng sụt giảm, và thị trường chứng khoán ảm đạm hơn) [5].

Trong bối cảnh tình hình căng thẳng giữa Nga và các nước phương Tây về vấn đề Ukraine, bên cạnh những thông tin hỗ trợ cho đồng đô la Mỹ có nhiều thông tin gây áp lực cho đồng EUR của khu vực châu Âu, do đó các nhà đầu tư đã lựa chọn đồng đô la Mỹ trong số các đồng tiền trú ẩn an toàn và đồng đô la Mỹ có xu hướng tăng trong ngắn hạn.

Thị trường lao động

Việc làm tiếp tục tăng với tốc độ vững chắc trong tháng 1/2022, trong khi tỷ lệ thất nghiệp tăng nhẹ. Tỷ lệ thất nghiệp 4% trong tháng 1 gần với mức dự đoán dài hạn của khảo sát Blue Chip và báo cáo của Fed vào tháng 9/2021[6]. Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động thấp hơn 1 phần trăm điểm so với mức trước đại dịch. Số lượng việc làm tăng 467.000, với mức tăng lớn nhất thuộc về ngành giải trí và khách sạn (151.000 việc) và dịch vụ chuyên nghiệp (86.000 việc). Đồng thời, số đơn xin trợ cấp thất nghiêp ở Mỹ tăng 23.000 trong tuần kết thúc vào ngày 12/2/2022, lên tới 223.000[7].

Tình trạng thiếu hụt lao động và nhu cầu lao động tại các doanh nghiệp ở Mỹ tăng cao đồng nghĩa với việc người lao động có thu nhập thấp hơn có thể yêu cầu chủ doanh nghiệp tăng lương. Nhiều người lao động ở Mỹ đang và có xu hướng từ bỏ công việc hiện tại để tìm kiếm những công việc có mức lương cao hơn. Theo kết quả nghiên cứu của nhóm nghiên cứu thuộc trường Đại học California-Berkeley, thu nhập của người dân Mỹ đã tăng thêm 5,3% (không kể lạm phát) tính từ tháng 12/2019 đến tháng 12/2021. Bên cạnh đó, các gói hỗ trợ của chính phủ Mỹ thời gian qua đã mang lại lợi ích đáng kể cho người lao động ở Mỹ thông qua các khoản trợ cấp hào phóng[8].

Vấn đề lạm phát

Lạm phát PCE lõi trong năm đã tăng vào tháng 12/2021, với giá hàng hóa lâu bền tăng nhanh hơn hai lần so với giá dịch vụ. Chỉ số PCE tăng từ 5,7% trong tháng 11 lên 5,9% trong tháng 12/2021[9]. Chỉ số PCE đạt mức 4,9%, so với mức 4,7% trong tháng trước đó. Giá lương thực tăng 5,8% trong khi giá năng lượng tăng 29,9%. Giá hàng hoá lâu bền tăng từ 9,6% lên 10,5%. Giá các loại xe đã qua sử dụng tăng 48%.

Trong tháng 1/2022, tỷ lệ lạm phát CPI tăng lên 7,5% so với cùng kỳ năm trước, mức tăng cao nhất trong vòng 40 năm, đánh dấu tháng thứ tư liên tiếp chỉ số giá tiêu dùng hàng năm vượt quá 6%. Lạm phát đang lan rộng tới tất cả các lĩnh vực trong nền kinh tế, trong đó giá ô tô đã qua sử dụng tăng tới 40%. Giá thực phẩm tăng hơn 7,0%, giá năng lượng tăng 27,0%[10].

Chỉ số giá sản xuất (PPI) trong tháng 1/2022 tăng 1,0% so với tháng trước và tăng 9,7% so với cùng kỳ năm trước. Đối với thực phẩm, năng lượng và dịch vụ thương mại, chỉ số PPI trong tháng 1 tăng 0,9% so với tháng trước và tăng 6,9% so với cùng kỳ năm trước. Không kể đến thực phẩm và năng lượng, chỉ số PPI đối với hàng tiêu dùng tăng 7,1% so với cùng kỳ năm trước. Trong khi đó, thành phần hàng hóa của Chỉ số giá tiêu dùng trong tháng 1/2022 đã tăng 11,7%, so với 2,1% vào tháng 1/2021, cho thấy một phần nguyên nhân dẫn đến lạm phát giá tiêu dùng là do cầu kéo (ngoài chi phí đẩy). Giá nhập khẩu tăng 2,0% trong tháng 1/2022 so với tháng trước và tăng 10,8% so với cùng kỳ năm trước, một phần phản ánh giá xăng dầu tăng 9,5% so với tháng trước và 57,7% so với năm trước. Nếu không kể thực phẩm và nhiên liệu, giá nhập khẩu trong tháng 1/2022 tăng 1,1% so với tháng trước và tăng 6,2% so với năm trước, với cung về hàng hóa công nghiệp và nguyên vật liêu tăng 3,2% so với tháng trước và tăng 22,0% so với năm trước[11].

  1. Các chính sách kinh tế

Theo phiên họp ngày 25-26/1/2022, Ủy ban thị trường mở liên bang của Fed quyết định duy trì lãi suất cơ bản ở biên độ 0-0,25%. Đây là lần thứ 15 liên tiếp Fed quyết định không điều chỉnh lãi suất, bất chấp tình hình lạm phát tiếp tục leo thang.  Theo Chủ tịch chi nhánh Fed tại New York, ông John Williams, việc tăng lãi suất giữ lúc lạm phát leo thang là điều cần thiết, song động thái đó không nên quá vội vàng và mạnh mẽ[12].

Fed có hai mục tiêu theo quy định là giá cả ổn định là việc làm toàn dụng. Trong những thập kỷ trước, Ngân hàng trung ương sẽ tăng lãi suất ngắn hạn nhằm ngăn chặn lạm phát trước khi lạm phát gia tăng, nếu không sẽ phải nâng tỷ lệ lãi suất nhiều hơn để đưa tỷ lệ lạm phát ổn định trở lại. Tuy nhiên, từ năm 2020 Fed đã sửa đổi các quy định liên quan đến chính sách tiền tệ, trong đó sẽ duy trì mục tiêu lạm phát dài hạn là 2% (tính theo chỉ số lạm phát PCE) và đưa ra mục tiêu việc làm rộng hơn, bao trùm hơn[13].

Trong tuyên bố chính sách ngày 26/1/2022, FOMC khẳng định sẽ sớm tìm thời điểm thích hợp để tăng phạm vi mục tiêu của lãi suất quỹ liên bang. Điều này có nghĩa việc Fed tăng lãi suất vào ngày 16 tháng 3 là khá chắc chắn. Chủ tịch Fed, ông Powell lưu ý rằng hầu hết những người tham gia cuộc họp của FOMC đồng ý rằng các điều kiện thị trường lao động phù hợp với yêu cầu về việc làm tối đa. Ông cho rằng, đây là thị trường lao động chặt nhất trong lịch sử với mức độ mở về việc làm và số người bỏ việc kỷ lục. Ông Powell nhấn mạnh, nền kinh tế Mỹ vẫn trong tình trạng bất định và đang phát triển theo những cách không mong đợi, đòi hỏi các nhà hoạch định chính sách cần đưa ra phản ứng linh hoạt và phù hợp.[14]

FOMC tiếp tục giảm tốc độ mua tài sản hàng tháng và tái khẳng định quá trình mua tài sản sẽ kết thúc vào tháng 3/2022, nhưng chưa thông báo thời điểm có thể giảm bảng cân đối kế toán. Tuy nhiên, FOMC đã đưa ra một số nguyên tắc chính sách tiền tệ bao gồm: 1- tỷ lệ quỹ liên bang sẽ vẫn là công cụ chính để điều chỉnh chính sách tiền tệ; 2- việc giảm bảng cân đối kế toán sẽ xảy ra sau khi lãi suất tăng; 3- các khoản cắt giảm sẽ được thực hiện theo cách có thể dự đoán được, chủ yếu thông qua những điều chỉnh đối với các khoản tái đầu tư; 4- quy mô bảng cân đối kế toán cuối cùng phải phù hợp với khung khổ hoạt động của Fed; 5- Fed kỳ vọng nắm giữ trái phiếu Kho bạc (loại bỏ dần việc nắm giữ các chứng khoán được đảm bảo bằng thế chấp)[15].

  1. Nhận định và dự báo

Conference Board dự báo rằng tăng trưởng GDP thực của Hoa Kỳ sẽ chậm lại còn 2,0 phần trăm trong quý 1 năm 2022, và tăng trưởng năm 2022 sẽ ở mức 3,5 phần trăm[16].Dự báo này đã giảm 0,2 điểm phần trăm so với dự báo gần nhất. Điều này liên quan đến một số yếu tố, bao gồm: làn sóng lây nhiễm Omicron gần đây và tốc độ tăng trưởng mạnh hơn dự kiến ​​trong quý 4 năm 2021. Các dự báo trước đây đã giả định rằng "làn sóng mùa đông" của Covid-19 sẽ làm giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế trong quý I năm 2022, nhưng quy mô lây nhiễm lớn hơn nhiều so với dự đoán. Tuy nhiên, các chỉ số kinh tế gần đây cho thấy sự gián đoạn liên quan đến Omicron là vừa phải hơn so với những đợt trước. Điều này ngụ ý rằng nền kinh tế Hoa Kỳ có thể đang trở nên kiên cường hơn trước đại dịch.

Tình hình tài chính của các hộ gia đình khả quan hơn cũng như thị trường lao động thu hẹp sẽ góp phần hỗ trợ chi tiêu cho tiêu dùng nói chung trong năm 2022. Nhưng Wells Fargo vẫn giảm ước tính dự báo chi tiêu và kỳ vọng chi tiêu tiêu dùng cá nhân sẽ tăng 2,8% trong năm 2022 và 2,3% năm 2023 (giảm tương ứng từ 3,4% và 2,6% so với ước tính tháng trước)[17]. Tăng trưởng quý I/2022 được dự đoán sẽ yếu hơn do môi trường chính sách ít có sự hỗ trợ hơn, đặt gánh nặng lên tiêu dùng của các hộ gia đình. Wells Fargo cũng dự đoán FOMC sẽ nâng tỷ lệ năm lần trong năm nay lên tổng cộng 125 điểm phần trăm.

Vào thời điểm cuối tháng 1/2021, sau phiên họp của FOMC, Ngân hàng Hoa Kỳ dư báo Fed sẽ tăng lãi suất 7 lần trong năm 2022, bắt đầu từ tháng 3 và mỗi lần tăng sẽ là 0,25 điểm phần trăm. Trước đó, nhiều ngân hàng lớn như Golman Sách và JP Morgan Chase đưa ra dự báo Fed sẽ tăn lãi suất 4 lần trong năm 2022[18].

Nếu lạm phát vẫn ở mức nóng vào cuối năm 2022 và thị trường lao động tiếp tục thắt chặt, FOMC sẽ có thể nâng lãi suất thêm 75 điểm phần trăm vào năm 2023. Việc giảm bảng cân đối kế toán của Fed, được dự đoán là có thể công bố vào tháng Bảy và bắt đầu vào tháng 8 năm 2022, là một hình thức tiếp theo để thắt chặt chính sách tiền tệ.

  1. Một số khuyến nghị đối với Việt Nam

Tăng trưởng GDP năm 2021 của Việt Nam đạt mức 2,58%[19]. Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá đạt 668,5 tỷ USD, tăng 22,6% so với năm trước. Cán cân thương mại hàng hoá ước tính xuất siêu 4 tỷ USD. Những con số này cho thấy dấu hiệu tích cực của nền kinh tế mặc dù chịu ảnh hưởng của đại dịch.

Sau hai năm bị gián đoạn đáng kể vì dịch Covid-19, dịch vụ và du lịch được xem sẽ là động lực tăng trưởng lớn trong năm 2022. Chính chủ đã công bố lộ trình mở cửa lại ngành du lịch từ 15/03 và dự kiến thiết lập lại các đường bay quốc tế. Việc mở cửa biên giới và tạo điều kiện cho dòng người di chuyển một cách an toàn sẽ giúp xây dựng lợi thế cạnh tranh trong bối cảnh thế giới bước vào giai đoạn bình thường hoá. Tuy nhiên, để nền kinh tế có thể phục hồi hoàn toàn, sẽ cần có sự cải thiện trên các lĩnh vực sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, v.v…

Chính phủ cũng ban hành gói phục hồi kinh tế tổng thể với quy mô 350.000 tỷ đồng được giải ngân dần trong năm 2022 và 2023, hướng tới các đối tượng là người dân, người lao động bị ảnh hưởng do dịch bệnh và các doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh,… Cùng với gói hỗ trợ là những chính sách để cải thiện chuổi cung ứng sẽ giúp cho nền kinh tế có khả năng phát triển ổn định hơn trong năm 2022. Một số chuyên gia đã đưa ra những dự báo tương đối tích cực về tăng trưởng kinh tế của Việt Nam, ví dụ như Fitch Rating cho rằng tăng trưởng năm 2022 và 2023 sẽ đạt mức tương ứng là 7,9% và 6,5%[20].

Trong bối cảnh dịch bệnh vẫn còn diễn biến phức tạp và các gói hỗ trợ kinh tế khổng lồ đang được giải ngân, giá xăng dầu tăng vọt, lạm phát ở Mỹ và các nước đang tiếp tục xu hướng leo thang, áp lực lạm phát trong năm 2022 ở Việt Nam là nguy cơ thực tế và hiện hữu. Do đó, để kiểm soát lạm phát và duy trì tăng trưởng kinh tế ổn định, chính phủ cần theo dõi sát sao tình hình thế giới và trong nước để có hướng điều chỉnh lãi suất và giá cả kịp thời. Bên cạnh đó, Chính phủ cũng cần tăng cường hợp tác với các quốc gia và khu vực trên thế giới, thông qua các biện pháp ngoại giao để đảm bảo nguồn nguyên liệu phục vụ cho sản xuất, hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong nước ký hợp đồng nhập nguyên liệu đầu vào dài hạn để có thể đảm bảo nguồn cung sản xuất và ổn đinh giá than sản xuất, ngăn chặn lạm phát leo thang.

 

 

 

[1] BEA (2022), Gross Domestic Product, Fourth Quarter and Year 2021 (Advance Estimate), 27/01/2022

[2] CDC (2022). Trends in Number of COVID-19 Cases and Deaths in the US Reported to CDC.

[3] New York Federal Reserves (2022). U.S. Economy in a Snapshot: February 2022

[4] Raymond James (2022), Weekly market snapshot, Economy and Policy, https://www.raymondjames.com/commentary-and-insights/economy-policy/2022/02/18/weekly-market-snapshot

[5] Brown, S. (2022). Rising tensions, 18/02/2022

[6] New York Federal Reserves (2022). U.S. Economy in a Snapshot: February 2022

[7] Raymond James (2022), Rising tensions, Economy and Policy, https://www.raymondjames.com/commentary-and-insights/economy-policy/2022/02/18/weekly-economic-commentary

[8] Ngọc Hà (2022), Người dân Mỹ hưởng lợi về kinh tế trong đại dịch Covid-19, Tin Thông tấn xã 14/02/2022.

[9] New York Federal Reserves (2022). U.S. Economy in a Snapshot: February 2022

[10] Bureau of Labor Statistics (2022), Consumer prices up 7.5 percent over year ended January 2022, TED: The Economics Daily, https://www.bls.gov/opub/ted/2022/consumer-prices-up-7-5-percent-over-year-ended-january-2022.htm

[11] Raymond James (2022), Rising tensions, Economy and Policy, https://www.raymondjames.com/commentary-and-insights/economy-policy/2022/02/18/weekly-economic-commentary

[12] Johnnelle Marte (2022), NY Fed’s Williams: No compelling argument for a big move with first rate hike, https://www.reuters.com/business/ny-feds-williams-says-it-will-be-appropriate-raise-rates-march-2022-02-18/

[13] Raymond James (2022), The Evolving Inflation Outlook, 11/2/2022.

[14] Raymond James (2022), Addig Fed Fears to Inflation Worrries, 28/1/2022.

[15] Raymond James (2022), Addig Fed Fears to Inflation Worrries, 28/1/2022.

[16] Conference Board (2022). The Conference Board Economic Forecast for the US Economy, 09/02/2022

[17] Wells Fargo (2022), U.S. Economic Outlook: February 2022

[18] VTV Báo Điện tử News (2022), Fed có thể tăng lãi suất 9 lần liên tiếp, truy cập từ https://vtv.vn/kinh-te/fed-co-the-tang-lai-suat-9-lan-lien-tiep-20220221091722427.htm

[19] Tổng cục Thống kê (2022). BÁO CÁO TÌNH HÌNH KINH TẾ – XÃ HỘI QUÝ IV VÀ NĂM 2021

[20] Hà Nguyễn (2022). Động lực thúc đẩy phục hồi kinh tế Việt Nam năm 2022, Đầu tư Chứng Khoán.


-Nguyễn Thị Vân Nga - Thị Thùy Linh

Viện NC Châu Mỹ


Xem tin phát hành ngày:
Tạp chí khoa học xã hội và nhân văn trên sóng truyền hình VTV2 (04/12/2018) Viện Hàn Lâm Khoa Học Việt Nam (06/12/2014) Tiết mục của Viện Kinh tế chính trị Thế giới (06/12/2015)

CỔNG THÔNG TIN VIỆN NGHIÊN CỨU CHÂU MỸ

Bản quyền thuộc về Viện nghiên cứu Châu Mỹ

Địa chỉ: Tầng 11 tòa nhà số 1, Liễu Giai, Ba Đình, Hà Nội.

Điện thoại: (846) 2730427 Fax: (846) 2730427

Email: vias@vass.gov.vn