1. Kiên định “vừa hợp tác, vừa đấu tranh” với Trung Quốc
Từ cuối những năm 1980, mục tiêu bao trùm của chính sách đối ngoại Việt Nam là duy trì hòa bình và an ninh để tạo điều kiện phát triển kinh tế. Nổi lên sau nhiều thập kỷ chiến tranh tàn khốc, nước ta không muốn một cuộc xung đột vũ trang khác sẽ phá vỡ quá trình hiện đại hóa của mình. Trong khi quyết tâm bảo vệ lợi ích cốt lõi, Việt Nam tìm cách tránh leo thang có thể dẫn đến việc sử dụng vũ lực với Trung Quốc, hiện là đối tác thương mại lớn nhất của nước ta. Năm 2022, thương mại song phương đạt 175,6 tỷ USD, chiếm 24% tổng kim ngạch thương mại của Việt Nam. Can dự sâu sắc về kinh tế và chính trị với Trung Quốc có thể không giúp Việt Nam ngăn chặn Trung Quốc hành động quyết đoán ở Biển Đông, nhưng nó có thể góp phần trao đổi thông tin, xây dựng lòng tin và ngăn chặn các sự cố. Kể từ sau khi ký Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ (tháng 12/2000), hai nước đã hợp tác với một số thành công trên khu vực Vịnh Bắc Bộ, bao gồm tuần tra chung của cảnh sát biển, phát triển dầu khí và quản lý nghề cá.
Việt Nam và Trung Quốc tiến hành đàm phán cấp chính phủ hai năm một lần về các vấn đề biên giới và lãnh thổ do Thứ trưởng Ngoại giao hai nước dẫn đầu. Ba nhóm công tác theo cơ chế này tập trung vào các vấn đề liên quan đến Biển Đông, cụ thể là vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ; hợp tác trong các lĩnh vực ít nhạy cảm, như thủy sản, nghiên cứu khoa học biển, hỗ trợ nhân đạo và cứu trợ thiên tai; và tham vấn về cách tạo ra sự phát triển kinh tế lẫn nhau. Thông qua các cơ chế này, hai nước duy trì các cuộc đối thoại thường xuyên nhằm xây dựng lòng tin và giải quyết các vấn đề thực chất, chẳng hạn như khám phá các sáng kiến phát triển chung hoặc phân định ranh giới trên biển.
Các cuộc đàm phán song phương đã dẫn đến một số thành tựu đáng chú ý, chẳng hạn như các hiệp định phân định biên giới đất liền và biên giới trên biển trong Vịnh Bắc Bộ lần lượt vào năm 1999 và 2000. Những thỏa thuận này đã mở đường cho việc thành lập vào năm 2004 của một khu vực thăm dò và phát triển dầu khí chung ở Vịnh Bắc Bộ, nhưng không có khai thác thương mại nào diễn ra. Hai nước cũng thiết lập một khu vực nghề cá chung, tuy với kết quả khiêm tốn. Các cuộc đàm phán về phân định biên giới trên biển bên ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ vẫn bế tắc, vì Việt Nam không chấp nhận yêu sách của Trung Quốc về việc loại trừ quần đảo Hoàng Sa khỏi chương trình nghị sự.
Cũng phải thấy rằng, sự can dự chính trị và kinh tế của Việt Nam với Trung Quốc là không đủ để bảo vệ đầy đủ lợi ích của mình ở Biển Đông, do "khoảng cách quyền lực" của hai nước, cũng như sự quyết đoán ngày càng tăng của Trung Quốc trong những năm qua. Do đó, Việt Nam cũng cần sử dụng các biện pháp cân bằng để chống lại các động thái của Trung Quốc.
Theo quan điểm của Việt Nam, việc để ngỏ khả năng thực hiện hành động pháp lý chống lại Trung Quốc là phù hợp với cam kết của nước ta đối với các biện pháp hòa bình. Năm 2014, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã yêu cầu các cơ quan liên quan chuẩn bị tài liệu cho các thủ tục pháp lý chống lại Trung Quốc vì đã triển khai trái phép giàn khoan Haiyang Shiyou 981 trong EEZ của Việt Nam. Tại một hội nghị ở Hà Nội vào tháng 11/2019, Thứ trưởng Ngoại giao Lê Hoài Trung cũng đề cập rằng mặc dù Việt Nam ưu tiên đàm phán, nhưng không loại trừ các biện pháp khác: "Chúng tôi biết rằng các biện pháp này bao gồm các biện pháp tìm hiểu thực tế, hòa giải, đàm phán, trọng tài và các biện pháp tố tụng. [...] Hiến chương Liên hợp quốc và UNCLOS 1982 có đủ cơ chế để chúng ta áp dụng các biện pháp đó".
Với ưu tiên của Trung Quốc trong việc giải quyết các tranh chấp lãnh thổ và hàng hải thông qua đàm phán, Việt Nam khó có thể giải quyết sự khác biệt với nước láng giềng thông qua Tòa án quốc tế về luật Biển hoặc Tòa án công lý quốc tế. Tiến trình khả thi nhất đối là sử dụng các tòa án trọng tài được thành lập theo phụ lục VII của UNCLOS để tìm kiếm phán quyết chống lại việc giải thích hoặc áp dụng Công ước của Trung Quốc, tương tự như các thủ tục tố tụng do Philippines khởi xướng chống lại Trung Quốc vào năm 2013.
Quyết định về việc có sử dụng lựa chọn pháp lý chống lại Trung Quốc hay không là một quyết định chính trị quan trọng. Mặc dù Việt Nam có khả năng thắng một vụ kiện trọng tài chống lại các yêu sách hàng hải của Trung Quốc xung quanh quần đảo Trường Sa, chúng ta không nên sớm đi theo con đường này. Năm 2011, hai nước đã ký một thỏa thuận về các nguyên tắc cơ bản hướng dẫn giải quyết các vấn đề liên quan đến biển, trong đó quy định rằng "đối với các tranh chấp liên quan đến biển giữa Việt Nam và Trung Quốc, hai bên sẽ giải quyết chúng thông qua các cuộc đàm phán và đàm phán thân thiện". Mặc dù thỏa thuận không cấm một trong hai bên tìm kiếm giải pháp pháp lý cho các tranh chấp, nhưng nó yêu cầu một bên trước tiên đã vi phạm thỏa thuận, khiến nó không hợp lệ hoặc bên ra tòa đã sử dụng hết tất cả các lựa chọn khác.
Ngay cả khi Việt Nam thắng kiện, quyết định của Trung Quốc bỏ qua trọng tài năm 2016 với Philippines có nghĩa là họ khó có thể thừa nhận phán quyết hoặc ngừng xâm phạm vùng biển Việt Nam. Trung Quốc thậm chí có thể trả đũa về ngoại giao và kinh tế, cũng có thể tăng cường các hành động khiêu khích (quân sự) nhằm vào các tài sản của Việt Nam ở Biển Đông. Một cuộc chiến pháp lý, trong khi mang lại ít lợi ích hữu hình, sẽ gây thù địch với Trung Quốc và gây bất ổn cho quan hệ song phương. Mặc dù pháp lý vẫn là một lựa chọn khả thi, nhưng bất kỳ quyết định theo đuổi kiện tụng nào cũng sẽ có tác động tai hại đến mối quan hệ với Trung Quốc, vì vậy "để ngỏ lựa chọn pháp lý cũng là một biện pháp răn đe". Trong khi đó, Việt Nam đang dựa vào các công cụ khác để đối phó với Trung Quốc ở Biển Đông, bao gồm cả ngoại giao quốc tế.
2. Tăng cường hợp tác đa phương
Phát triển quan hệ với các cường quốc là ưu tiên hàng đầu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam, mang lại lợi ích kinh tế, giúp Việt Nam nâng cao vị thế ngoại giao và chiến lược. Để đối phó với sự quyết đoán ngày càng tăng của Trung Quốc, chúng ta cần ngày càng cởi mở hơn trong việc thúc đẩy sự hợp tác với các cường quốc. Ví dụ, Sách trắng quốc phòng năm 2019 nêu rõ "tùy hoàn cảnh và điều kiện cụ thể, Việt Nam sẽ xem xét phát triển quan hệ quốc phòng, quân sự cần thiết, phù hợp với các nước". Điều khoản này cung cấp cho chính phủ một số linh hoạt trong việc đối phó với những gì họ coi là chủ nghĩa phiêu lưu của Trung Quốc ở Biển Đông, trong đó đặc biệt tìm cách tạo ra các liên kết mạnh mẽ hơn với Hoa Kỳ, Nhật Bản, Ấn Độ và Nga và các nước ASEAN.
Hoa Kỳ
Hoa Kỳ là đối tác song phương quan trọng nhất của Việt Nam trong việc hỗ trợ các động thái của mình ở Biển Đông, mặc dù mối quan hệ này bị hạn chế bởi sự thận trọng về việc đối đầu với Trung Quốc. Như một học giả đã nói, "Hoa Kỳ là quốc gia duy nhất có đủ khả năng vật chất và ý chí chính trị để cân bằng với Trung Quốc, và họ cũng đã tiến hành các hoạt động thực tế ở Biển Đông để thách thức các yêu sách của Trung Quốc". Hai nước đã thiết lập quan hệ đối tác toàn diện vào năm 2013 và vừa nâng cấp lên cấp chiến lược năm 2023. Ngay cả trước đó, các mối quan hệ song phương trên thực tế đã là "chiến lược cao”, với việc Hoa Kỳ ủng hộ lập trường của Việt Nam trên biển và cung cấp cho Việt Nam sự hỗ trợ xây dựng năng lực hàng hải, và Việt Nam thực tế cũng ủng hộ chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương Tự do và Rộng mở của Hoa Kỳ với sự tham gia của Việt Nam vào các vấn đề khu vực. Chính sách của Hoa Kỳ ở Biển Đông ngày càng phù hợp với các ưu tiên của Việt Nam. Hoa Kỳ thường xuyên tiến hành các hoạt động tự do hàng hải trên biển để thách thức những gì họ cũng coi là tham vọng hàng hải quá mức của Trung Quốc. Vào tháng 7/2020, Ngoại trưởng Michael Pompeo đã tố cáo yêu sách của Trung Quốc đối với các nguồn tài nguyên ngoài khơi ở hầu hết Biển Đông và "chiến dịch bắt nạt để kiểm soát chúng" là "hoàn toàn bất hợp pháp". Sự hội tụ lợi ích lớn hơn mở ra những cơ hội mới cho hợp tác song phương, bao gồm khả năng Việt Nam mua vũ khí và thiết bị quân sự do Hoa Kỳ sản xuất, khả năng tham gia vào các cơ chế an ninh khu vực do Hoa Kỳ dẫn.
Nhật Bản
Nhật Bản và Việt Nam đã thiết lập quan hệ đối tác chiến lược vào năm 2009, được nâng cấp lên Đối tác chiến lược sâu rộng vì hòa bình và thịnh vượng ở châu Á vào năm 2014 và Đối tác chiến lược toàn diện vào năm 2023. Quan hệ song phương tốt đẹp và được củng cố bởi mức độ tin cậy lẫn nhau cao. Các liên kết kinh tế mạnh mẽ và lợi ích hội tụ ở Biển Đông là nền tảng cho hợp tác. Việt Nam đã nhận được sự hỗ trợ đáng kể về xây dựng năng lực hàng hải từ Nhật Bản, bao gồm khoản vay 348,2 triệu USD để đóng sáu tàu tuần tra.
Trong chuyến thăm Việt Nam của Thủ tướng Suga Yoshihide vào tháng 10/2020, hai bên đã nhất trí đẩy mạnh hợp tác quốc phòng, an ninh và đạt được thỏa thuận cho phép Nhật Bản xuất khẩu thiết bị, công nghệ quốc phòng sang Việt Nam. Quan trọng hơn, ông Suga tuyên bố rằng Việt Nam "rất quan trọng để đạt được tầm nhìn của chúng tôi về Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương Tự do và Rộng mở, và trở thành đối tác có giá trị của chúng tôi", cho thấy Nhật Bản và Hoa Kỳ chia sẻ nhận thức về vai trò của Việt Nam trong việc thực hiện các chiến lược Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương. Ở chiều ngược lại, những ràng buộc về hiến pháp của Nhật Bản và tranh chấp lãnh thổ của chính họ với Trung Quốc ở Biển Hoa Đông, vốn cao hơn trong danh sách ưu tiên của Nhật Bản, có thể khiến nước này mất tập trung vào sự hợp tác với Việt Nam.
Nga
Là quốc gia kế thừa chính của Liên Xô cũ, Nga có lịch sử hợp tác lâu dài với Việt Nam. Nga là quốc gia đầu tiên Việt Nam thiết lập quan hệ đối tác chiến lược vào năm 2001, trước khi nâng cấp lên Đối tác chiến lược toàn diện vào năm 2012. Mặc dù sự hiện diện của Nga ở Biển Đông là tối thiểu, nhưng Việt Nam vẫn là một đối tác quan trọng. Cho đến nay, Nga là nhà cung cấp vũ khí lớn nhất cho Việt Nam, chiếm khoảng 74% tổng lượng nhập khẩu của nước ta. Nga vẫn là một đối tác dầu khí quan trọng. Các công ty Nga vẫn coi Việt Nam là một thị trường quan trọng và có động lực thương mại mạnh mẽ để duy trì hoạt động tại Việt Nam. Tuy nhiên, Biển Đông không phải là lợi ích cốt lõi của Nga. Hơn nữa, như một chuyên gia nhận xét, "vị thế bán đồng minh của Trung Quốc có thể là một trở ngại lớn cho các cam kết của Nga với Việt Nam ở Biển Đông".
Ấn Độ
Ấn Độ và Việt Nam đã thiết lập quan hệ đối tác chiến lược vào năm 2007, với hợp tác quốc phòng là "một trụ cột quan trọng". Ấn Độ đã giúp đào tạo thủy thủ đoàn tàu ngầm Việt Nam từ năm 2013 và vào tháng 5/2015, hai nước đã ký Tuyên bố Tầm nhìn chung về hợp tác quốc phòng giai đoạn 2015-2020, thể hiện cam kết hợp tác nhiều hơn. Vào tháng 12/2020, hai nước đã ban hành một tuyên bố tầm nhìn chung cam kết tăng cường các chương trình trao đổi, đào tạo và xây dựng năng lực quân sự với quân đội. Ngoài hợp tác quân sự, Việt nam cũng đã hợp tác với công ty dầu khí Ấn Độ ONGC Videsh Limited thăm dò dầu khí ở Biển Đông, bất chấp sự phản đối của Trung Quốc. Là một công ty nhà nước, ONGC sẽ xem xét không chỉ lợi ích thương mại mà còn cả lợi ích chiến lược trong việc thực hiện công việc của mình. Do đó, công ty khó có thể chịu áp lực từ Trung Quốc như một số nhà đầu tư tư nhân.
Trong những năm tới, khi Ấn Độ tìm cách bổ sung thực chất vào Chính sách Hành động hướng Đông, hợp tác chiến lược song phương có thể sẽ phát triển. Tuy nhiên, Ấn Độ có thể bị hạn chế bởi các lợi ích chiến lược hạn chế ở biển Đông và các vấn đề an ninh lân cận cấp bách hơn.
ASEAN
Khi Việt Nam quyết định nộp đơn xin gia nhập ASEAN vào đầu những năm 1990, chúng ta không tập trung vào việc sử dụng các cơ chế của hiệp hội để đẩy lùi Trung Quốc trong các tranh chấp hàng hải. Nhưng sau khi Việt Nam gia nhập vào năm 1995, nước ta đã biến những công cụ này thành trọng tâm trong chiến lược biển Đông. Cùng với các quốc gia thành viên ASEAN có chung mối quan ngại, Việt Nam đã thành công trong việc giữ tranh chấp Biển Đông ở vị trí cao trong chương trình nghị sự của tổ chức, qua đó quốc tế hóa vấn đề này. Việt Nam đã sử dụng ASEAN để khuếch đại quan điểm và nhằm mục đích "liên kết vị trí Biển Đông của ASEAN với tầm nhìn về một trật tự quốc tế dựa trên luật lệ".
Đến cuối năm 2020, một phần do sự chậm trễ liên quan đến COVID-19, ASEAN và Trung Quốc chỉ hoàn thành lần đầu tiên trong ba lần đàm phán CoC theo kế hoạch. Mặc dù Trung Quốc đang truyền thông rằng các cuộc đàm phán đang đạt được "tiến bộ", chúng ta không sẵn sàng vội vàng đàm phán với cái giá phải trả là nhượng bộ nội dung và hiệu quả của bộ quy tắc. Phải nói rằng, CoC sẽ không có ý nghĩa lắm nếu không có lộ trình để Trung Quốc tuân thủ UNCLOS và phán quyết của tòa trọng tài năm 2016.
3. Nâng cấp năng lực thực thi pháp luật và đẩy mạnh khai thác kinh tế biển
Sức mạnh quân sự áp đảo của Trung Quốc đặt ra thách thức nghiêm trọng nhất đối với những nỗ lực của Việt Nam nhằm bảo vệ lợi ích của mình ở Biển Đông. Với nguồn lực hạn chế hơn nhiều, chúng ta không thể sánh được với sức mạnh quân sự của Trung Quốc. Thay vào đó, cần tìm cách xây dựng "khả năng răn đe” về quân sự để khiến Trung Quốc cân nhắc cẩn thận trước khi dàn dựng một cuộc tấn công vào Việt Nam hoặc chiếm giữ lãnh thổ trên biển. Sách trắng quốc phòng năm 2019 của Việt Nam nêu rõ mục tiêu này: “Việt Nam chủ trương củng cố, nâng cao sức mạnh quốc phòng, trong đó sức mạnh quân sự là nòng cốt, bảo đảm đủ năng lực răn đe, đánh bại mọi hành động xâm lược, chiến tranh”.
Để đạt được mục tiêu này, Việt Nam đã đầu tư đáng kể vào việc nâng cấp quân đội trong mười năm qua. Trong những năm gần đây, việc mua sắm quân sự của nước ta đã tập trung vào khả năng hải quân, không quân và phòng thủ bờ biển để đối phó tốt hơn với các mối đe dọa đến từ Biển Đông. Ngoài những nâng cấp này, nước ta cũng đầu tư vào việc nâng cấp năng lực của cảnh sát biển Việt Nam và giám sát nguồn lợi thủy sản Việt Nam, những người đóng vai trò ngày càng quan trọng trong việc đối phó với các lực lượng của Trung Quốc trên biển. Hầu hết các tàu cảnh sát biển và kiểm ngư mới đã được lắp ráp tại các nhà máy đóng tàu trong nước, phù hợp với chiến lược xây dựng ngành công nghiệp quốc phòng của Việt Nam. Một số đối tác của Việt Nam, đặc biệt là Hoa Kỳ và Nhật Bản, cũng đã cung cấp hỗ trợ xây dựng năng lực hàng hải. Sự hợp tác như vậy đã cho phép Việt Nam phát triển năng lực thực thi pháp luật hàng hải nhanh hơn trong khi giảm thiểu áp lực đối với các nguồn lực hạn chế của Việt Nam.
Song song với nâng cao năng lực thực thi pháp luật hàng hải, điều quan trọng là cần phải tăng cường sự hiện diện trên Biển Dông, thông qua việc đẩy mạnh khai thác tài nguyên kinh tế biển, trong đó phải kể đến thủy sản, tài nguyên dầu khí và tiềm năng điện gió ngoàikhơi.
Nghề cá không chỉ mang lại cho các quốc gia yêu sách lợi ích kinh tế đáng kể mà còn góp phần vào nỗ lực của họ để chứng minh quyền chủ quyền và quyền tài phán của họ đối với các vùng biển tranh chấp. Giống như các bên tranh chấp khác, Việt Nam do đó thúc đẩy đánh bắt xa bờ, đặc biệt là xung quanh Hoàng Sa và Trường Sa, cung cấp trợ cấp cho ngư dân để vừa đảm bảo sinh kế vừa củng cố yêu sách hàng hải của mình trong vùng biển này. Ngành thủy sản có tiềm năng hợp tác giữa các quốc gia yêu sách và có thể mở đường cho các thỏa thuận cao cấp trong các lĩnh vực khác trong tương lai.
Ngành dầu khí đã đóng góp đáng kể vào sự phát triển kinh tế của Việt Nam trong 30 năm qua. Tuy nhiên, Trung Quốc cũng đã gây áp lực buộc các công ty dầu khí quốc tế ngừng hoạt động tại Việt Nam, và cố gắng đưa vào văn bản đàm phán Bộ quy tắc ứng xử một quy định rằng các quốc gia ven biển phải tự mình tiến hành tất cả các hoạt động kinh tế ở Biển Đông, bao gồm cả thăm dò dầu khí, và không "hợp tác với các công ty từ các nước ngoài khu vực". Yêu cầu này là khó khăn đối với Việt Nam và các quốc gia yêu sách ASEAN khác có hoạt động dầu khí ở Biển Đông, không chỉ vì thiếu vốn và công nghệ, mà còn vì bị hạn chế quyền chủ quyền và tự chủ quốc gia. Khi cần thiết, Việt Nam có thể chọn đối đầu với Trung Quốc, như đã làm trong sự cố Haiyang Shiyou 981 năm 2014. Hơn nữa, ta vẫn tìm cách lựa chọn các đối tác dầu khí từ các quốc gia có lợi ích chiến lược của họ ở Biển Đông vì các chính phủ này về mặt logic sẽ có nhiều động lực hơn để hỗ trợ các công ty quốc gia của họ trước áp lực của Trung Quốc. Về lâu dài, Việt Nam cần phát huy nội lực trong thăm dò và khai thác dầu khí để vừa có tài nguyên cho phát triển kinh tế, vừ bảo vệ chủ quyền, trong khi tránh các kịch bản leo thang phức tạp.
Việt Nam đã cam kết với quốc tế tại COP26 năm 2021 về giảm phát thải khí carbonic về không (Net-zero cacbon) vào năm 2050. Đồng thời tháng 12/2022 Việt Nam đã ký JETP về chuyển dịch năng lượng công bằng với các nước G7, EU với gói hỗ trợ tài chính kỹ thuật là 15,5 tỷ USD cho giai đoạn đến 2025 nhằm đẩy nhanh tiến độ NetZero, là nước thứ 3 ký JETP sau các nước Nam Phi và Indonesia. Xu hướng phát triển năng lượng tái tạo trên thế giới, trong đó có điện gió ngoài khơi là giải pháp đột phá. Các nguồn điện gió trên bờ, gần bờ và ngoài khơi dự tính sẽ chiếm tỷ trọng lên đến 70% trong tổng nguồn phát điện vào năm 2050 (theo Quy hoạch điện VIII/2023). Việt Nam có khoảng gần 600 GW tiềm năng kỹ thuật điện gió ngoài khơi. Với mục tiêu đáp ứng nhu cầu điện, đảm bảo an ninh năng lượng, đa dạng hóa nguồn điện và cung cấp điện ổn định, tin cậy, đáp ứng nhu cầu phát triển KT-XH và an ninh quốc phòng của đất nước, việc xây dựng chiến lược phát triển đưa Việt Nam thành cường quốc điện gió ngoài khơi là hết sức cần thiết.
4. Một số khuyến nghị cụ thể
Biển Đông đang trở thành một đấu trường cho cạnh tranh chiến lược Mỹ-Trung, đặt ra cho các quốc gia yêu sách những thách thức và cơ hội. Trong khi tranh chấp có nguy cơ dẫn đến xung đột vũ trang, những nguy cơ liên quan đến cuộc cạnh tranh quyền lực lớn này có thể thúc đẩy các quốc gia yêu sách hướng tới việc thúc đẩy hợp tác và giảm căng thẳng. Đặc biệt, Trung Quốc có lợi ích trong việc duy trì sự ổn định để giảm thiểu sự can thiệp vào Biển Đông của các cường quốc bên ngoài. Tuy nhiên, các giải pháp dài hạn nên bắt đầu bằng những sáng kiến khiêm tốn, cụ thể trong các lĩnh vực cụ thể.
Thứ nhất, Việt Nam và Trung Quốc có thể đề nghị đẩy nhanh đàm phán phân định vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ. Năm 2000, hai nước đã phân định ranh giới biển của họ ở vùng Vịnh, điều này làm giảm phạm vi tranh chấp và mở đường cho sự hợp tác thực chất về nghề cá và dầu khí. Các cuộc đàm phán song phương về vùng biển bên ngoài vùng vịnh Bắc Bộ đang bế tắc: Trung Quốc cho rằng chuỗi Hoàng Sa có thể tạo ra một vùng đặc quyền kinh tế của riêng mình, trong khi Việt Nam không đồng ý. Trong khi chờ giải quyết sự khác biệt này, hai bên cần xem xét hợp tác về nghề cá, nghiên cứu khoa học hay bảo vệ môi trường biển để xây dựng lòng tin và thúc đẩy hòa bình ở Biển Đông.
Thứ hai, Việt Nam nên xúc tiến các cuộc đàm phán với Indonesia để phân định các yêu sách hàng hải chồng lấn của hai nước (giống thảo thaaunj tương tự với Malaysia). Việt Nam và Indonesia đã đồng ý về ranh giới thềm lục địa của mỗi bên, điều này sẽ làm cơ sở để đi đến một sự hiểu biết tương tự về EEZ của nhau. Tuy có thỏa hiệp về chủ quyền, nhưng thỏa thuận này sẽ sẽ chấm dứt tranh chấp hàng hải giữa hai nước láng giềng và giúp giảm số lượng các sự cố phát sinh khi ngư dân từ một quốc gia mạo hiểm vào vùng đặc quyền kinh tế của nước kia. Một quan chức cho biết: "Đây là thời điểm thích hợp để hai bên thúc đẩy đàm phán vì cả hai đều đang phải đối mặt với áp lực ngày càng tăng [từ Trung Quốc] ở Biển Đông". Dần dần thu hẹp phạm vi của các tranh chấp sẽ góp phần giải quyết chúng về lâu dài.
Thứ ba, Việt Nam cần nhân rộng các mô hình hợp tác song phương về cảnh sát biển và nghề cá ở cấp khu vực, bao gồm thông qua các cơ chế nhỏ, trong đó một nhóm nhỏ các nước ven biển đặt nền tảng cho thỏa thuận rộng lớn hơn. Ví dụ, Việt Nam đã tiến hành tuần tra cảnh sát biển chung với Trung Quốc ở Vịnh Bắc Bộ sau khi phân định ranh giới biển ở đó. Hai nước có thể mời lực lượng bảo vệ bờ biển của các quốc gia yêu sách khác gửi tàu để tránh cướp biển hoặc buôn lậu. Xem xét vai trò tiền tuyến của lực lượng bảo vệ bờ biển trong các tranh chấp hàng hải, việc thiết lập trao đổi thường xuyên giữa họ có thể góp phần giảm căng thẳng trên biển và xây dựng lòng tin hợp tác về các thách thức hàng hải xuyên quốc gia. Tương tự, Việt Nam cũng đã đạt được thỏa thuận song phương với Philippines về việc các cơ quan thực thi pháp luật đối xử nhân đạo với ngư dân. Mô hình này "nên được mở rộng để bao gồm các quốc gia ven biển khác hoặc bao gồm các lĩnh vực hợp tác khác ngoài việc bảo vệ ngư dân, chẳng hạn như tiến hành nghiên cứu nghề cá hoặc khôi phục các trường học về cá".
Thứ tư, Việt Nam và các quốc gia ven biển khác cần thúc đẩy hợp tác khoa học biển để xây dựng lòng tin và nuôi dưỡng hợp tác. Việt Nam và Philippines đã tiến hành bốn cuộc thám hiểm nghiên cứu khoa học biển và hải dương học chung trong những năm 1990 và 2000 trước khi dừng dự án vào năm 2007, nhưng gần đây đã cho thấy ý định khôi phục sự hợp tác như vậy. Mặc dù có sự đồng thuận rõ ràng trong khu vực về tầm quan trọng của hợp tác để đảm bảo đánh bắt cá bền vững, ý chí chính trị vẫn không đủ để thực hiện các thỏa thuận cần thiết. Hợp tác nghiên cứu khoa học về nghề cá Biển Đông có thể khả thi hơn về mặt chính trị trong thời gian tới. Nó có thể dẫn đến một sự đồng thuận khoa học có thể, theo thời gian, giúp vượt qua những trở ngại chính trị.
Cuối cùng, Việt Nam với các nước thành viên ASEAN khác và Trung Quốc cần kiên trì và thực tế trong đàm phán Bộ quy tắc ứng xử trên biển Đông. Để đạt được mục tiêu này, các bên sẽ cần thu hẹp sự khác biệt và nhượng bộ thương mại nếu có thể. Hiện tại, không có lựa chọn nào tốt hơn để tiếp tục tham gia vào quá trình này, đây vẫn là diễn đàn duy nhất để tất cả các bên tranh chấp thảo luận về lập trường của họ. Trong khi đó, Việt Nam có thể thúc đẩy thành lập các nhóm công tác kỹ thuật về các lĩnh vực ưu tiên, như nghề cá và bảo vệ môi trường, để làm việc về các biện pháp thực tế trong khi tách biệt ở một mức độ nào đó khỏi đường lối ngoại giao của Nhóm công tác chung của bộ quy tắc. Tất nhiên, kỳ vọng về một CoC là không quá cao và không thể ký bằng mọi giá.
Tài liệu tham khảo
1. Lê Lan Anh (2012). “Chính sách Biển Đông của chính quyền Tổng thống Obama”, Tạp chí Châu Mỹ ngày nay, số 05, 2012.
2. Vương Huệ Bàng (2011). “Ý tưởng giải quyết tranh chấp lãnh thổ giữa các nước ASEAN từ góc độ an ninh phi truyền thống”, Tạp chí Quan hệ quốc phòng, số 1, 2011
3. Bộ Quốc phòng (2023). Chính sách Quốc phòng Việt Nam. http://mod.gov.vn/vn/bai-viet/sa-qpvn/sa_qpvn_dnqp/sa-qpvn-dnqp-ctcs#:~:text=Vi%E1%BB%87t%20Nam%20ch%E1%BB%A7%20tr%C6%B0%C6%A1ng%20kh%C3%B4ng,trong%20quan%20h%E1%BB%87%20qu%E1%BB%91c%20t%E1%BA%BF.
4. Phạm Cao Cường (2019). Chính sách Biển Đông của Hoa Kỳ trong bối cảnh mới, NXB Khoa học xã hội, ISBN: 978-604-956-853-4.
5. Nguyễn Bá Diến, Nguyễn Hùng Cường (2021). “Chính sách, pháp luật trên Biển Đông của Trung Quốc - Nhìn từ góc độ pháp luật quốc tế”, NXB Chính trị quốc gia Sự thật.
6. Phan Thị Thu Dung (2023). Dự báo các xu thế lớn trên thế giới tác động đến môi trường chiến lược của Việt Nam trong 15 năm tới và một số vấn đề đặt ra đối với lợi ích, an ninh quốc gia. Tạp chí Cộng sản ngày 21/04/2023. https://tapchicongsan.org.vn/the-gioi-van-de-su-kien/-/2018/827297/du-bao-cac-xu-the-lon-tren-the-gioi-tac-dong-den-moi-truong-chien-luoc-cua-viet-nam-trong-15-nam-toi-va-mot-so-van-de-dat-ra-doi-voi-loi-ich%2C-an-ninh-quoc-gia.aspx#
7. Hoàng Đình (2023). Những trụ cột trong chính sách của Mỹ ở Biển Đông. Báo Tuổi trẻ ngày 02/07/2023. https://thanhnien.vn/nhung-tru-cot-trong-chinh-sach-cua-my-o-bien-dong-185230701142522013.htm
8. Hoành, N. H. (2015). Trung Quốc: Chiến lược trở thành cường quốc biển, http://nghiencuuquocte.org/2015/03/17/trung-quoc-chien-luoc-cuong-quoc-bien/
9. Nguyễn Văn Hưởng và Nguyễn Thế Tuấn (2021) về “Biển Đông nhìn từ góc độ lịch sử và pháp lý”, NXB Chính trị quốc gia Sự thật.
10. Đỗ Mai Khanh (2013). “Diễn tập đối phó với thách thức an ninh phi truyền thống trong khuôn khổ ADMM+: Từ ý tưởng đến hành động”, Tạp chí Quan hệ quốc phòng, số 23, 2013
11. Đỗ Mai Khanh (2013). “Hợp tác giải quyết vấn đề an ninh phi truyền thống của ASEAN và sự tham gia của Việt Nam trong những năm gần đây”, Tạp chí Quan hệ Quốc phòng, số 4, 2013
12. Nguyễn Tuấn Khanh (2022). “Hợp tác quốc tế ở Biển Đông hai thập niên đầu thế kỷ XXI: Từ góc nhìn của Chủ nghĩa Kiến tạo”, Nhà xuất bản: ĐHQG TP HCM
13. Trần Khánh (2012). “Tranh chấp Biển Đông nhìn từ góc độ địa chính trị”, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, số 2 (143).
14. Quí Lâm và Kim Phượng (2014). “Âm mưu thủ đoạn của Trung Quốc trên Biển Đông và Công luận thế giới”, NXB Văn hóa-Thông tin, Hà Nội, 2014.
15. Trần Văn Liệu (2023). Chiến lược “con đường tơ lụa kỹ thuật số” của Trung Quốc và tác động tới khu vực ASEAN, Tạp chí Thông tin & Truyền thông, 07/05/2023
16. Công Luận (2023). ASEAN sẽ tập trận an ninh hàng hải và cứu nạn vào tháng 9. Vietnam.vn. https://www.vietnam.vn/asean-se-tap-tran-an-ninh-hang-hai-va-cuu-nan-vao-thang-9/
17. Bùi Xuân Mai (2010). “Nâng cao hiệu quả hợp tác quốc phòng ASEAN đối phó với thách thức an ninh phi truyền thống”, Tạp chí Kiến thức Quốc phòng hiện đại, số 5, 2010.
18. Lương Văn Mạnh (2015). “Các cơ chế hợp tác của lục quân các nước ASEAN và sự đóng góp của Việt Nam nhằm ứng phó với thách thức an ninh phi truyền thống”, Tạp chí Quan hệ quốc phòng, số 29, 2015.
19. Lý Kim Minh (2004). “Vấn đề tranh chấp ở Biển Đông đối chiếu với Luật Biển quốc tế”, Nhà xuất bản Hải Dương, Trung Quốc, 2004.
20. Hoàng Khắc Nam (2012). “Hệ thống xung đột trên Biển Đông: Thực trạng và đặc điểm”, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, số 2 (143).
21. Nguyễn Thế Phương (2015). Triển vọng xây dựng lực lượng tuần tra chung trên biển Đông. Nghiên cứu Quốc tế. https://nghiencuuquocte.org/2015/06/04/trien-vong-xay-dung-luc-luong-tuan-tra-chung-tren-bien-dong/
22. Cao Xuân Quyền (2014). “Giải pháp ứng phó vấn đề an ninh phi truyền thống của các nước trong khu vực Đông Nam Á và thế giới”, Tạp chí Kiến thức quốc phòng hiện đại, số 1, 2014.
23. Đặng Đình Quý (2010). “Biển Đông: Hợp tác vì an ninh và phát triển trong khu vực”, Nhà Xuất bản Thế giới, năm 2010
24. Đặng Xuân Thanh (2012). “Tình huống chiến lược Biển Đông”, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, số 2 (143).
25. Ngô Lực Tải (2012). về “Kinh tế biển Việt Nam: trên đường phát triển và hội nhập”, NXB Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, 2012.
26. Trần Nam Tiến (20140. “Hợp tác ở Biển Đông: Từ góc nhìn quan hệ quốc tế”, NXB Văn hóa – Văn nghệ, 2014.
27. TTXVN (2015) Con đường tơ lụa: công cụ chính sách của Trung Quốc, TLTKĐB TTXVN 28-3-2015
28. Nguyễn Hồng Thao và Ramses Amer (2009). “Biển Đông: Tìm kiếm một dàn xếp pháp lý mới nhằm tăng cường ổn định và hợp tác”, Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế số 2, 2009
29. Trần Công Trục (2022). “Tranh chấp Biển Đông: Pháp lý và thực tiễn”, NXB Chính trị quốc gia Sự thật
30. Võ Xuân Vinh (2019), “Hợp tác an ninh phi truyền thống trên biển ở Đông Nam Á và gợi ý chính sách cho Việt Nam”, NXB KHXH, ISBN: 9786049567995, 2019.
Tác giả: TS. Nguyễn Thị Hải Yến
Viện nghiên cứu Châu Mỹ