Khoa học công nghệ ở Việt Nam hiện nay

23/04/2024

Cùng với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, Việt Nam cũng xây dựng chiến lược phát triển Khoa học và Công nghệ. Việc xác định ph¬¬át triển khoa học và công nghệ có vai trò quan trọng cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Phát triển khoa học và công nghệ góp phần đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, bảo đảm quốc phòng – an ninh, nâng cao chất lượng đời sống vật chất và tinh thần của người dân. Ngày nay, khoa học và công nghệ đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp tham gia quá trình sản xuất. Do đó, khoa học và công nghệ đòi hỏi cần có chính sách đầu tư tương ứng và đồng bộ nhằm phù hợp với mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

1.1. Một số thành tựu đạt được.

Chiến lược khoa học và công nghệ giai đoạn 2011-2020 với mục tiêu góp phần trong phát triển kinh tế - xã hội đã đạt được một số thành tựu nhất định như cải thiện chất lượng tăng trưởng, nâng cao năng suất lao động. “Theo Báo cáo Tổng kết thực hiện chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm 2011-2020, xây dựng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030, chỉ số đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng tăng từ 33,6% bình quân giai đoạn 2011-2015 lên 45,2% giai đoạn 2016-2020, tính chung 10 năm 2011-2020 đạt 39,0% (vượt mục tiêu 35%). Tốc độ tăng năng suất lao động bình quân giai đoạn 2016-2020 là 5,8%/năm (cao hơn mức 4,3%/năm của giai đoạn 2011-2015); Tỉ trọng giá trị xuất khẩu sản phẩm công nghệ cao trong tổng giá trị xuất khẩu hàng hoá tăng từ 19% năm 2010 lên khoảng 50% năm 2020. Đổi mới và sáng tạo công nghệ sẽ tiếp tục là chìa khóa để Việt Nam duy trì tốc độ tăng trưởng nhanh, bền vững và đi tắt đón đầu trong giai đoạn phát triển tiếp theo”[1]. Có thể tổng kết một số thành tựu nổi bật trong lĩnh vực kho học và công nghệ của Việt Nam trong giai đoạn 2011-2020 như sau:

Trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn: đóng góp mà lĩnh vực này mang lại chủ yếu là trong công tác xây dựng chủ trương, đường lối, chính sách… như thực hiện Dự thảo Văn kiện Đại hội XIII của Đảng; thực hiện đề án nghiên cứu, biên soạn bộ Lịch sử Việt Nam; xây dựng bộ Địa chí quốc gia Việt Nam; thực hiện các nghiên cứu khoa học, các nghiên cứu xu thế mới của thế giới…

Trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học cơ bản, số lượng bài báo công bố quốc tế của Việt Nam tăng trung bình 20% giai đoạn 2016-2020. Nếu chỉ tính riêng năm 2020, số lượng bài công bố quốc tế của Việt Nam tăng 45% so với năm trước.

Trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học – công nghệ ứng dụng như đã nêu ở trên chỉ số đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng tăng từ 33,6% bình quân giai đoạn 2011-2015 lên 45,2% giai đoạn 2016-2020, tính chung 10 năm 2011-2020 đạt 39,0% (vượt mục tiêu 35%). Lĩnh vực này đang thể hiện ngày càng lớn những đóng góp vào giá trị gia tăng của sản phẩm hàng hoá của Việt Nam.

Vài năm trở lại đây, chính phủ Việt Nam đã dành nhiều sự quan tâm tới các startup, khiến cho hệ sinh thái khởi nghiệp ở Việt Nam được hình thành và phát triển. Theo thống kê ước tính từ Topica Founder Institute giai đoạn 2012 - 2019 thì Việt Nam đã có hơn 3.000 Startup. Nếu chỉ tính năm 1018 và 2019, lượng vốn được đầu tư cho các startup Việt Nam đạt gần 1 tỷ USD và Việt Nam trở thành quốc gia đứng thứ 3 Đông Nam Á về thu hút lượng vốn lớn cho thị trường khởi nghiệp sáng tạo[2].

Trước đây, hoạt động khoa học – công nghệ ở Việt Nam chủ yếu dựa vào nguồn vốn từ ngân sách nhà nước (chiếm khoảng 80%) thì nay nguồn lực tài chính từ các doanh nghiệp và xã hội cho khoa học – công nghệ đã gần bằng với nguồn ngân sách nhà nước với tỷ lệ gần như tương đương nhau.

Trong lĩnh vực y tế và sức khoẻ cộng đồng, Việt Nam đang đứng thứ 3 trong khu vực Đông Nam Á và thứ 43 trên thế giới về sản xuất vaccin, công tác phòng ngừa và thanh trừ các bệnh truyền nhiễm ở Việt Nam được đánh giá cao, làm chủ được các kỹ thuật và công nghệ y học hiện đại ở trình độ cao, như ghép tạng và đa tạng,... Đại dịch Covid 19 đã khiến cho cả Việt Nam và thế giới bị ảnh hưởng nặng nề. Tuy nhiên, trên khía cạnh khoa học - công nghệ, cả Việt Nam và thế giới đều ghi nhận những đóng góp tích cực cho phát triển kinh tế và xã hội. Việc đầu tư nghiên cứu khoa học và công nghệ trong thời gian dài giúp tạo nền tảng cho các tổ chức nghiên cứu phát triển nhanh hơn các sản phẩm y học nhằm đối phó với đại dịch như vaccin, test-kit, robot tự hành (như robot Vibot 1a), công nghệ làm việc từ xa…

Một số ngành và lĩnh vực đã phát triển cùng với những đóng góp bởi áp dụng các hoạt động khoa học - công nghệ vào các khâu trong quá trình sản xuất như:

Khoa học - công nghệ đã góp phần phát triển lĩnh vực nông nghiệp đưa Việt Nam vào nhóm 15 quốc gia đứng đầu về xuất khẩu nông sản, ước tính khoa học - công nghệ đóng góp trên 30% giá trị gia tăng của ngành nông nghiệp và 38% trong sản xuất giống cây trồng, vật nuôi giúp cho các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam thuận lợi ra thị trường nước ngoài như gạo, cafe, cao su, hồ tiêu, hạt điều…[3] Khoa học - công nghệ cũng góp phần phát triển lĩnh vực công nghiệp, xây dựng và giao thông. Cùng với các sản phẩm nông nghiệp đang phát triển, khu vực công nghiệp chế biến đặc biệt là các sản phẩm được chế biến từ các sản phẩm nông sản ví dụ như: Bến Tre có khoảng 182 doanh nghiệp chế biến các sản phẩm từ dừa chiếm gần 30% doanh nghiệp sản xuất công nghiệp trên địa bản tỉnh và giải quyết được gần mười nghìn lao động trên địa bàn tỉnh[4]. Trong khi đó, Tiền Giang với lợi thế phát triển nông nghiệp chủ yếu là trái cây, đã lựa chọn đầu tư cũng như thu hút đầu tư vào sản xuất, chế biến và tiêu thụ trái cây. Tiền Giang đang có 150 cơ sở thu mua, sơ chế trái cây quy mô vừa và nhỏ, 42 hợp tác xã và tổ hợp tác chuyên doanh trái cây và có khoảng 14 cơ sở chế biến trái cây đang hoạt động với công suất gần 50 nghìn tấn một năm[5]. Ngoài ra, áp dụng khoa học – công nghệ Công ty cổ phần Đại Thành cung cấp các sản phẩm công nghệ phục vụ lĩnh vực nông nghiệp như robot giúp tưới tiêu với công suất làm việc 5,3 ha một giờ hay xả tối đa 7,2 lít mỗi phút.

Khoa học - công nghệ đã góp phần phát triển lĩnh vực quốc phòng đặc biệt là trong thiết kế, chế tạo và cải tiến vũ khí, trang thiết bị kỹ thuật công nghệ cao, cũng như xây dựng các hệ thống giám sát, kiểm soát an toàn, an ninh thông tin trên không gian mạng. Một vài thành tựu của khoa học - công nghệ trong lĩnh vực quốc phòng có thể kể đến như việc Viện Khoa học Môi trường Quân sự thuộc bộ tư lệnh hoá học áp dụng công nghệ internet vạn vật cùng nhiều công nghệ hiện đại khác chế tạo ra robot RBH-18 thay thế con người hoạt động trong phóng xạ cao hoặc rò rỉ chất độc hoá học; Học viện Kỹ thuật Quân sự áp dụng công nghệ trong việc chế tạo robot Vibot 1a hỗ trợ y tế nhằm thực hiện các công tác như tự động vận chuyển thức ăn, thuốc men, nhu yếu phẩm,… từ ngoài vào các buồng bệnh; vận chuyển rác thải sinh hoạt, rác thải y tế, đồ giặt,... từ buồng bệnh ra khu tập kết và hỗ trợ giao tiếp từ xa giữa nhân viên y tế và bệnh nhân; AI camera do Tập đoàn Viễn thông Quân đội phát triển với các dịch vụ như xem trực tuyến trên thiết bị, lưu trữ sự kiện, cài đặt các ứng dụng AI, mã hoá video. Không chỉ có các đơn vị nhà nước mà các doanh nghiệp tư nhân của Việt Nam cũng tham gia áp dụng khoa học – công nghệ vào các sản phẩm hỗ trợ quốc phòng và dân sinh như Công ty MAJ Việt Nam chuyên nghiên cứu, thiết kế, sản xuất và lắp ráp trong lĩnh vực thiết bị bay không người lái (UAV). Công ty này đã cung cấp một hệ điều hành các máy bay không người lái phục vụ lưỡng dụng cả trong quốc phòng và dân sinh. Ngoài ra, công ty này cũng cung cấp các dòng máy bay không người lái đa nhiệm từ quay phim, chụp ảnh đến thực hiện các nhiệm vụ trinh sát, giám sát và sử dụng cả trong lĩnh vực dân sự khác. Các sản phẩm của công ty MAJ Việt Nam đều do các kỹ sư người Việt thiết kế và chế tạo. Các sản phẩm có sự áp dụng khoa học – công nghệ còn được xuất hiện với sự hợp tác giữa doanh nghiệp tư nhân với đơn vị quốc phòng và đơn vị nhà nước như sản phẩm máy khử khuẩn thang máy Airtech do Công ty Airtech Thế Long cung cấp được công ty kết hợp với Trung tâm Hỗ trợ chuyển giao công nghệ - Cục Ứng dụng và Phát triển công nghệ  (Bộ Khoa học và Công nghệ) và Trường Cao đẳng công nghệ quốc phòng - Tổng cục công nghiệp quốc phòng nghiên cứu và chế tạo.

1.2. Một số tồn tại và hạn chế

Một số chỉ tiêu đặt ra trong chiến lược khoa học – công nghệ quốc gia giai đoạn 2011-2020 chưa đạt được gồm: (i) Mặc dù nguồn lực xã hội đầu tư cho KH&CN ngày càng tăng, tuy nhiên mục tiêu đặt ra trong Chiến lược về đầu tư xã hội cho KH&CN đạt 2% GDP vào năm 2020 không đạt được. (ii) Mục tiêu hình thành 60 tổ chức nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng đạt trình độ khu vực và thế giới vào năm 2020 đặt ra đã không đạt được khi Việt Nam chỉ có 22 tổ chức được SCIMAGO xếp hạng, có 02 trường đại học được xếp hạng trong bảng xếp hạng của QS World Ranking và 8 trường đại học được xếp hạng theo xếp hạng của QS Asia Ranking, Việt Nam cũng được UNESCO công nhận 02 Trung tâm quốc tế về Toán học và Vật lý vào năm 2017. (iii) Trong giai đoạn 2016-2020, số lượng đơn và văn bằng sáng chế, giải pháp hữu ích tăng tương ứng khoảng 1,6 lần và 1,7 lần so với giai đoạn 2011-2015. Cụ thể, số đơn đăng ký sáng chế, giải pháp hữu ích giai đoạn 2016-2020 là 3.538 và 1.849 (tổng là 5.387); số văn bằng bảo hộ sáng chế, giải pháp hữu ích là 698 và 953 (tổng là 1.651). Như vậy, mục tiêu về số lượng sáng chế đăng ký bảo hộ đặt ra trong giai đoạn 2016-2020 tăng gấp 2 lần so với giai đoạn 2011-2015 là chưa đạt được.[6]

Một số hạn chế có thể được tổng hợp lại như sau:

- Khoa học – công nghệ được đặt ở vị trí là động lực và nền tàng cho phát triển kinh tế - xã hội, cho sự tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế và tăng năng suất lao động xã hội. Tuy nhiên, trong thời gian qua, các hoạt động khoa học – công nghệ ở Việt Nam chưa thực sự ở vào vị trí này. Các chính sách, kế hoạch… của các địa phương nhằm áp dụng khoa học – công nghệ để phát triển các ngành, các lĩnh vực chưa sâu, đầu tư còn dàn trải, tính khả thi chưa cao.

- Về cơ bản, trình độ khoa học – công nghệ của Việt Nam (trừ các lĩnh vực như công nghệ thông tin – viễn thông, dầu khí, hàng không, tài chính – ngân hàng…) thì vẫn còn khoảng cách để có thể được xếp vào nhóm dẫn đầu khu vực Đông Nam Á. Đa số các doanh nghiệp Việt Nam vẫn đang sử dụng công nghệ cũ, lạc hậu so với mức trung bình của thế giới, khả năng đổi mới công nghệ hạn chế, năng lực nghiên cứu ứng dụng từ các trường đại học, trung tâm nghiên cứu ra khu vực doanh nghiệp còn ở mức thấp.

- Thị trường khoa học – công nghệ ở Việt Nam đã được hình thành từ năm 2007 khi Việt Nam tham gia Hiệp định về những khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu tài sản trí tuệ (Hiệp định TRIPS) của WTO. Đến ngày 1/6/2013, Quốc hội đã thông qua Luật KH&CN số 29/2013/QH13 thay thế cho Luật KH&CN số 21/2000/QH10. Tiếp theo đó, ngày ngày 9/11/2013, Thủ tướng Chính phủ cũng đã ban hành Quyết định 2075/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình phát triển thị trường KH&CN đến năm 2020. Tuy nhiên, hành lang pháp lý, cơ chế và chính sách vận hành còn thiếu đồng bộ, việc ứng dụng kết quả khoa học – công nghệ vào sản xuất còn hạn chế nhất là các chính sách về đầu tư, thuế, đấu thầu… Về cơ bản, thị trường KH&CN ở nước ta vẫn ở trình độ thấp, năng lực của nhiều chủ thể trên thị trường KH&CN còn thấp. Do đó, cần có những cơ chế, chính sách nhằm tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho việc trao đổi, mua bán trên thị trường, cũng như những chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư đổi mới, nhập khẩu công nghệ, đặc biệt là các doanh nghiệp hoạt động trong những ngành/lĩnh vực mũi nhọn. Cần đẩy mạnh hơn nữa vai trò của các đơn vị trung gian trên thị trường khoa học - công nghệ như dịch vụ môi giới, chuyển giao, tư vấn, đánh giá, định giá, thẩm định, giám định công nghệ. Ngoài ra, doanh nghiệp của Việt Nam hiện nay phần lớn là doanh nghiệp vừa và nhỏ, đặc biệt là các doanh nghiệp khởi nghiệp khó tiếp cận được các nguồn vốn, tín dụng để tiến hành đổi mới công nghệ do vướng mắc về điều kiện tài sản bảo đảm, số năm kinh nghiệm hoạt động... Nhiều doanh nghiệp chưa có tầm nhìn dài hạn về việc cải tiến, đổi mới công nghệ để phát triển bền vững. Các nỗ lực đổi mới công nghệ tại doanh nghiệp còn mang tính nhỏ lẻ, thiếu hệ thống.

- Cơ chế, chính sách còn một số vướng mắc, dẫn tới quỹ phát triển khoa học - công nghệ của các doanh nghiệp chưa được sử dụng để đầu tư, đổi mới, ứng dụng công nghệ, hỗ trợ đổi mới sáng tạo. Một số cơ chế ưu đãi thuế cho đầu tư nghiên cứu khoa học, đổi mới công nghệ còn khó thực thi do các quy định pháp luật chưa đồng bộ. Chính sách về mua sắm công chưa tạo được động lực khuyến khích việc sử dụng sản phẩm, dịch vụ là kết quả của hoạt động nghiên cứu khoa học, đổi mới, phát triển công nghệ của doanh nghiệp trong nước. Còn thiếu chính sách và các biện pháp hỗ trợ của Nhà nước cho các doanh nghiệp đưa sản phẩm là kết quả của nghiên cứu, phát triển, đổi mới công nghệ tiếp cận được các thị trường tiềm năng. Liên kết giữa các doanh nghiệp, giữa doanh nghiệp với các cơ sở giáo dục đại học và các cơ quan quản lý nhà nước trong đổi mới, ứng dụng, chuyển giao và phát triển công nghệ còn yếu; chưa có cơ chế khuyến khích sử dụng lực lượng lao động của các cơ sở giáo dục đại học tham gia vào hoạt động đổi mới, cải tiến, phát triển công nghệ tại doanh nghiệp.

- Tỷ lệ đầu tư cho khoa học - công nghệ là chưa tương xứng với tốc độ phát triển kinh tế. Lực lượng lao động trong lĩnh vực khoa học - công nghệ tăng về số lượng nhưng chất lượng chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Các hoạt động về hợp tác quốc tế trong lĩnh vực khoa học - công nghệ còn yếu kém, chưa chú trọng vào công tác chuyển giao, tiếp thu và làm chủ công nghệ mới. Đầu tư cho cơ sở vật chất kỹ thuật  và trang thiết bị cho hoạt động khoa học - công nghệ còn nghèo nàn, lạc hậu. Ở một số địa phương, ngân sách đầu tư phát triển cho khoa học - công nghệ chưa được phân bổ và sử dụng đúng mục đích.

- Hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia của Việt Nam đang trong quá trình hình thành, vai trò của khu vực doanh nghiệp đối với hoạt động nghiên cứu đổi mới sáng tạo cũng như ứng dụng và hấp thu công nghệ còn mờ nhạt, sự gắn kết giữa doanh nghiệp với cơ sở giáo dục đào tạo lực lượng lao động phù hợp và đáp ứng được nhu cầu về khoa học - công nghệ còn yếu kém.

1.3. Một số gợi ý phát triển Khoa học – công nghệ cho Việt Nam

Mặc dù đã có được những thành tựu nhất định, nhưng khoa học – công nghệ của Việt Nam hiện nay vẫn còn tồn tại những yếu kém và hạn chế. Muốn đẩy mạnh phát triển các ngành khoa học – công nghệ thì Việt Nam cần giải quyết những vấn đề nội tại. Dưới đây là một số gợi ý cho việc giải quyết các vấn đề nội tại của Việt Nam gồm:

Thứ nhất, cải thiện khuôn khổ thể chế (về đổi mới sáng tạo), hoàn thiện cơ chế, chính sách và các chế tài xử lý vi phạm quyền sở hữu trí tuệ, cũng như xây dựng hành lang pháp lý cho hệ sinh thái khởi nghiệp.

Thứ hai, việc phát triển các khu công nghệ cao (KCNC) ở Việt Nam cần được quan tâm hơn khi dịch chuyển từ mô hình tăng trưởng theo chiều rộng sang chiều sâu. Các dự án phát triển hoặc mở rộng các khu công nghệ cao, đặc biệt là ba khu công nghệ cao quốc gia hiện nay cần được coi là những dự án đầu tư trọng điểm trong chính sách đổi mới mô hình tăng trưởng. Các khu công nghệ cao phải được đặt ở vị trí trung tâm trong các quy hoạch tổng thể phát triển các ngành công nghiệp, đặc biệt là các ngành công nghiệp chiến lược của đất nước. Các khu công nghệ cao cần được phát triển theo hướng lấy các hoạt động R&D làm trung tâm để hình thành các chuỗi ngành công nghiệp trong tương lai. Các khu công nghiệp gần các khu công nghệ cao cần được quy hoạch trước để thu hút các doanh nghiệp công nghệ cao được ươm tạo từ các khu công nghệ cao trong tương lai.

Thứ ba, phát triển cơ sở hạ tầng công nghệ. Cơ sở hạ tầng vật chất của Việt Nam, bao gồm đường xá, cảng biển và sản xuất điện, thường được coi là yếu kém và nhanh xuống cấp so với tốc độ tốc độ tăng trưởng nhanh của đất nước và tốc độ đô thị hóa nhanh chóng. Đây sẽ là rào cản dẫn tới việc kém cạnh tranh trong thu hút FDI vào Việt Nam.

Việc áp dụng khoa học - công nghệ vào công tác thủ tục và chế tài hành chính nhằm giảm bớt sự quá tải cho các cơ quan xử lý vi phạm hành chính như: phần mềm cung cấp thông tin về luật pháp, phần mềm cẩm nang về tư vấn quyền sở hữu trí tuệ, phần mềm phát hiện hàng giả, hàng nhái… phần mềm hỗ trợ nhân viên công quyền trong công tác xử lý vi phạm… Tất cả các cơ chế, chính sách, quy định cũng như các chế tài đều cần đặt việc bảo vệ và quyền lợi của người tiêu dùng vào vị trí trung tâm, cũng cần minh bạch hóa công tác xử lý vi phạm.

Thứ tư, nâng cao vai trò của các nhân tố trong hệ sinh thái công nghệ cao như: Đầu tư trọng điểm một số phòng thí nghiệm tại các trường đại học của Việt Nam đồng thời cung cấp các dự án nghiên cứu cơ bản để các phòng thí nghiệm có thể hoạt động và phát triển. Các trường đại học và các cơ sở nghiên cứu của Việt Nam hiện nay chưa có nền tảng R&D mạnh. Nhìn vào các bảng xếp hạng đại học thế giới, Việt nam chỉ có 2-3 trường có mặt (bao gồm Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Đại học Bách Khoa) nhưng cũng xếp ở nhóm >700. Theo đánh giá của Times Higher Education năm 2020, năng lực nghiên cứu của ba trường đại học hàng đầu nước ta cũng chỉ ở mức 8,4-9,1 trên thang điểm 100. Về mặt trích dẫn thì Đại học Bách Khoa đạt mức điểm cao nhất trong ba trường với 42,3 điểm, theo sau là Đại học Quốc gia Hà Nội với số điểm 38,8. Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh được 16 điểm. Các trường đại học và các cơ sở nghiên cứu cần có sự hiện diện tại các khu công nghệ cao nhiều hơn nữa nhằm tận dụng các cở sở hạ tầng chất lượng cao cũng như tạo ra sự liên kết với doanh nghiệp đang hiện hữu ở đây.

Hoạt động thông tin cung cấp cho các Starup của Việt Nam còn tương đối yếu kém. Cần xây dựng hệ thống cung cấp thông tin thông qua website khởi nghiệp. Phổ biến thường xuyên các hoạt động tuyên truyền khởi nghiệp tại các trường đại học cùng với sự tham gia của các tập đoàn. Các trường đại học cần kêu gọi tài trợ của các tập đoàn trong việc xây dựng các phòng thí nghiệm hỗ trợ cho các hoạt động nghiên cứu…

Đẩy mạnh hơn nữa các chương trình tiếp cận các quỹ đầu tư mạo hiểm nhằm hỗ trợ vốn các startup Việt Nam phát triển.

Thứ năm, đảm bảo tính nghiêm minh và minh bạch trong quản lý, khai thác tài nguyên thiên nhiên đặc biệt là tài nguyên đất hiếm. Các việc xây dựng cần đi đôi với việc thực thi xử lý và cần áp sát với thực tế nhằm đảm bảo được tính răn đe cần thiết. Xây dựng định hướng và nguồn kinh phí đủ lớn hỗ trợ của các nghiên cứu cơ bản về khai thác đất hiếm.

Thứ sáu, trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp thứ tư đang diễn ra nhanh và sâu rộng, chúng ta nên tập trung các nguồn lực cho việc phát triển các KCNC. Ví dụ: xây dựng luật KCNC quy định rõ vai trò, chức năng, quyền hạn… của ban quản lý KCNC, nâng cao vai trò của các trường đại học, các tổ chức nghiên cứu, các phòng thí nghiệm tại KCNC đặc biệt là các hoạt động nghiên cứu và R&D, xác định rõ đối tượng thu hút đầu tư hướng tới vấn đề công nghệ cao, đẩy nhanh đầu tư cơ sở vật chất hạ tầng kỹ thuật - công nghệ…

Các gợi ý trên nhằm giải quyết các vấn đề nội tại của khoa học – công nghệ ở Việt Nam. Đồng thời, sự lan toả của khoa học – công nghệ trên tất cả các lĩnh vực sẽ giúp cho Việt Nam dần trở mạnh mẽ hơn trong nhiều mặt nhằm chống lại những quan điểm sai trái, thù địch cũng như giữ vững độc lập chủ quyền đất nước.

 

Tài liệu tham khảo:

 

[1] Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển truyền thông KH&CN, Cục Ứng dụng và Phát triển công nghệ; 4/2022; Cổng thông tin điện tử Bộ Khoa học và Công nghệ; “Bứt phá về năng suất, chất lượng nhờ đổi mới và sáng tạo công nghệ”; https://www.most.gov.vn/vn/tin-tuc/21861/but-pha-ve-nang-suat--chat-luong-nho-doi-moi-va-sang-tao-cong-nghe.aspx

[2] Theo số liệu của ESP Capital năm 2019

[3] Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Truyền thông KH&CN, 1/2018,Khoa học và Công nghệ đã đóng góp lớn cho phát triển kinh tế - xã hội đất nước, https://ipvietnam.gov.vn/web/guest/tin-tuc-su-kien/-/asset_publisher/7xsjBfqhCDAV/content/khoa-hoc-va-cong-nghe-a-ong-gop-lon-cho-phat-trien-kinh-te-xa-hoi-at-nu-1

[4] Quỳnh Trang, 12/2021, “Ứng dụng khoa học công nghệ vào chế biến các sản phẩm từ dừa tại Đồng bằng Sông Cửu Long”, https://sinhthainongnghiep.net.vn/ung-dung-khoa-hoc-cong-nghe-vao-che-bien-cac-san-pham-tu-dua-tai-dong-bang-song-cuu-long/

[5] Xuân Đào, 5/2021, “Tiền Giang: Một doanh nghiệp đưa trái cây “bay” đến các thị trường khó tính trong bối cảnh đại dịch Covid -19”, https://congly.vn/tien-giang-mot-doanh-nghiep-dua-trai-cay-bay-den-cac-thi-truong-kho-tinh-trong-boi-canh-dai-dich-covid-19-186725.html

[6] Bộ Khoa học và Công nghệ, 9/2021, “Báo cáo thuyết minh xây dựng chiến lược phát triển khoa học, công nghệ và Đổi mới sáng tạo giai đoạn 2021-2030” , http://xml2.quangtri.gov.vn/xml_conco/VBDEN/bc_tm_chien_luoc.pdf


TS. Nguyễn Minh Tuấn

Viện nghiên cứu Châu Mỹ


Xem tin phát hành ngày:
Tạp chí khoa học xã hội và nhân văn trên sóng truyền hình VTV2 (04/12/2018) Viện Hàn Lâm Khoa Học Việt Nam (06/12/2014) Tiết mục của Viện Kinh tế chính trị Thế giới (06/12/2015)

CỔNG THÔNG TIN VIỆN NGHIÊN CỨU CHÂU MỸ

Bản quyền thuộc về Viện nghiên cứu Châu Mỹ

Địa chỉ: Tầng 11 tòa nhà số 1, Liễu Giai, Ba Đình, Hà Nội.

Điện thoại: (846) 2730427 Fax: (846) 2730427

Email: vias@vass.gov.vn